Giải pháp hỗ trợ trẻ em trải qua xâm hại tình dục
Muốn giảm thiểu thấp nhất trẻ em vùng sâu, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số bị xâm hại tình dục, thì cần có sự phối hợp chặt chẽ liên ngành giữa các đoàn thể với các cơ quan chức năng.
Nhiều trường hợp bị xâm hại khi còn rất nhỏ tuổi
Báo cáo tại Tọa đàm “Thách thức và Giải pháp trong công tác hỗ trợ trẻ em trải qua xâm hại tình dục” do Tổ chức Hagar Quốc tế tại Việt Nam tổ chức vào sáng 26/10, bà Nguyễn Thuận Hải - Trưởng Tổng đài quốc gia 111 cho biết, trong 9 tháng đầu năm, tổng cuộc gọi đến 238.500. Trong đó có 92 ca gọi đến có nhu cầu hỗ trợ, can thiệp xâm hại tình dục, 83 trẻ em dưới 16 tuổi bị xâm hại tình dục.
Trong 442 trẻ em bị xâm hại tình dục có 426 trẻ em gái (chiếm 96,4%) và 16 trẻ em trai (chiếm 3,6%). Số vụ việc xâm hại qua môi trường mạng đang có chiều hướng gia tăng, nhưng việc hỗ trợ can thiệp cho nhóm đối tượng trẻ em bị xâm hại trong môi trường mạng còn bất cập vướng mắc trong việc xác minh cũng như hỗ trợ can thiệp các vụ việc trẻ em bị xâm hại trên môi trường mạng.
Bà Nguyễn Thuận Hải cho biết thêm, nhiều vụ việc xâm hại tình dục trẻ em nghiêm trọng vẫn xảy ra gây hoang mang, bức xúc trong dư luận xã hội. Trong số đó, có những vụ trẻ em còn rất nhỏ đã bị xâm hại tình dục (14 trẻ em từ 0 đến 3 tuổi, 33 trẻ em từ 4-6 tuổi). Có tới 28,2% thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em là người thân của trẻ. Điển hình như trường hợp bé gái 5 tuổi ở Bà Rịa – Vũng Tàu bị xâm hại dẫn đến tử vong; bé gái 2 tuổi ở Bình Thuận bị xâm hại tình dục bởi người quen của gia đình.
Theo bà Hải, sự phát triển nhanh chóng của mạng xã hội dẫn đến vấn đề bạo lực và xâm hại tình dục qua môi trường mạng có chiều hướng gia tăng. Vấn đề bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng còn có vướng mắc, bất cập. Việc xác minh, xác định các vụ việc còn chậm.
Tại Tọa đàm, bà Trần Thanh Huyền - Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Yên Bái cho biết, theo số liệu ngành Lao động Thương binh xã hội tỉnh Yên Bái trong 9 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 13 vụ xâm hại trẻ em (trong đó 11 vụ trẻ em bị xâm hại tình dục) chủ yếu xảy ra ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
“Sự chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị khiến cho trẻ em thiếu cơ hội tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội dành cho trẻ em nhất là trẻ em vùng sâu, vùng xa, trẻ em là người dân tộc thiểu số.
Đáng ngại hơn đối với trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số bị xâm hại tình dục đối diện rất nhiều khó khăn. Theo đó, các em không nói được tiếng phổ thông, thậm chí cả mẹ cũng tương tự. Thậm chí trong quá trình hội phụ nữ muốn hỗ trợ tâm lý hoặc cung cấp kiến thức về kỹ năng sống cho trẻ đã bị xâm hại cũng gặp không ít khó khăn”, bà Huyền cho biết.
"Một số trẻ đã bị nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục, chúng tôi muốn hướng dẫn mẹ để chăm sóc, dạy con nhưng mẹ cũng không biết tiếng phổ thông. Điều này khiến chúng tôi mỗi lần đi hỗ trợ những trường hợp này đều phải thông qua phiên dịch", bà Trần Thanh Huyền cho biết.
Theo bà Huyền, khó khăn là hầu hết trẻ em vùng cao, dân tộc thiểu số đi học bán trú thì cuối tuần mới trở về nhà với gia đình. Nên việc trẻ em đi học bán trú cũng khó khăn trong quá trình tiếp cận, hỗ trợ trẻ. Trẻ em không biết tự chăm sóc bản thân trong khi các em dân tộc thiểu số còn rụt rè, không cởi mở nên quá trình tiếp cận để hỗ trợ cũng gặp không ít khó khăn. Đồng thời, việc hỗ trợ cho những trường hợp trẻ bị xâm hại ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tương đối khó khăn.
Hỗ trợ trẻ bị xâm hại tình dục
Ths. Tô Thị Hạnh - Tổ chức Hagar Quốc tế tại Việt Nam cho biết, thời gian qua Tổ chức Hagar đã nỗ lực tham vấn về quyền và pháp lý cho trẻ và gia đình; phòng ngừa tái sang chấn với trẻ trước/trong/sau khi trẻ tham gia vào quá trình y tế, pháp lý và quay trở lại trường học; thúc đẩy niềm tin vào công lý cho trẻ và gia đình thông qua các cuộc họp trao đổi giữa gia đình và chính quyền; phòng ngừa tái sang chấn: Nâng cao nhận thức về sang chấn với hệ thống hỗ trợ trẻ.
Sau khi hỗ trợ cho các địa phương triển khai nhiều chương trình hỗ trợ cho trẻ bị xâm hại tình dục, bà Hạnh cho biết trẻ đã có niềm tin và có mối quan hệ kết nối với người trợ giúp; Trẻ sẵn sàng chia sẻ với người hỗ trợ và kết nối được với bên thứ ba (công an, bác sĩ, luật sư và kết nối lại với người chăm sóc).
Từ đó, trẻ thấy được tôn trọng, được hiểu và chấp nhận sự việc đã xảy ra trong quá khứ. Đặc biệt, trẻ tự tin hơn thông qua việc trẻ hiểu về quyền, lợi ích và nhìn nhận hợp lý sau sự việc.
Từ kinh nghiệm của địa phương, bà Huyền cho rằng, muốn giảm thiểu thấp nhất trẻ em vùng sâu, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số bị xâm hại tình dục, thì cần có sự phối hợp chặt chẽ liên ngành giữa các đoàn thể với các cơ quan chức năng.
"Chúng tôi thường xuyên tăng cường công tác phòng ngừa, nâng cao nhận thức về xâm hại tình dục và Luật pháp liên quan, lồng ghép vào chương trình kỹ năng sống trong trường học”, bà Huyền nói thêm.
Like fanpage để theo dõi thông tin mới nhất