Giải mã sức khỏe tinh thần tuổi dậy thì: Chuyên gia cảnh báo những hệ lụy âm thầm
Giữa thời đại thông tin bùng nổ, nhiều học sinh bước vào tuổi dậy thì với vô vàn thay đổi trong cơ thể nhưng lại thiếu hành trang kiến thức để hiểu đúng và bảo vệ chính mình. Nếu không có sự đồng hành kịp thời từ gia đình, các nguy cơ như mang thai ngoài ý muốn, tổn thương tâm lý hay hành vi nguy cơ sẽ luôn rình rập.
Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) mỗi năm có khoảng 16 triệu trẻ em gái từ 15 - 19 tuổi sinh con, cứ 10 trẻ VTN thuộc nhóm này thì 9 trẻ đã lập gia đình. Các biến chứng khi mang thai và khi sinh tiếp tục là những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ với các em gái tuổi 15 - 19 ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.
Theo Cục Dân số, Bộ Y tế cho thấy, trung bình mỗi năm cả nước có khoảng 300 ngàn ca hút thai ở tuổi 15 - 19, trong đó 60 - 70% là học sinh, sinh viên. Mặc dù tỷ lệ phá thai ở Việt Nam trong 10 năm gần đây giảm, nhưng tỷ lệ phá thai ở trẻ VTN, thanh niên lại có dấu hiệu gia tăng, chiếm 20% các trường hợp phá thai.
Những dấu hiệu nhận biết
TS.BS Nguyễn Thu Giang, Phó Viện trưởng Viện Sức khỏe cộng đồng Ánh sáng LIGHT cho biết, xét về mặt sinh học, những dấu hiệu mà nhiều phụ huynh vẫn nghĩ là “báo hiệu dậy thì” như tăng trưởng mạnh về chiều cao, cân nặng, sự phát triển rõ rệt của cơ quan sinh dục, hay khi trẻ có kinh nguyệt, xuất tinh… thực chất là những biểu hiện ở giai đoạn muộn.
Trong khi đó, giai đoạn đầu của tuổi dậy thì thường âm thầm và tinh tế hơn: trẻ cao lên nhanh hơn một chút, cơ thể bắt đầu có mùi, giọng nói thay đổi, ngực hơi nhú… Những dấu hiệu này xuất hiện sớm và khá rõ ràng nếu bố mẹ quan sát kỹ hoặc nắm được đặc điểm phát triển theo lứa tuổi.
Vì vậy, theo bà, phụ huynh không nên chờ đến khi trẻ bước vào giai đoạn muộn mới bắt đầu trò chuyện về cơ thể, giới tính hay sức khỏe sinh sản. Khi đó, trẻ đã phải đối diện với quá nhiều thay đổi cùng lúc và dễ nảy sinh lo lắng, hiểu lầm hoặc tiếp cận thông tin sai lệch từ bên ngoài.
Ở góc độ tâm lý học, PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định rằng tuổi dậy thì là giai đoạn trẻ bắt đầu “khám phá bản sắc”, suy nghĩ nhiều hơn nhưng hành xử lại vụng về, thiếu tinh tế.
Trẻ không còn thoải mái với chính cơ thể của mình như trước: từ một đứa trẻ tràn đầy năng lượng, các em có thể trở nên mệt mỏi, nhạy cảm, dễ tổn thương. Nếu trước đây bố mẹ luôn là trung tâm, thì nay môi trường xã hội rộng mở khiến trẻ chuyển sang tìm kiếm sự công nhận từ bạn bè, thầy cô và những mối quan hệ bên ngoài.
Đây cũng là lúc xuất hiện mâu thuẫn trong gia đình. Bố mẹ thường muốn áp đặt suy nghĩ, mong con đi theo khuôn khổ sẵn có; trong khi trẻ lại có xu hướng làm ngược lại để khẳng định bản thân, tìm kiếm sự độc lập. Vì vậy, trong mắt cha mẹ, con bỗng trở nên bướng bỉnh, khó bảo. Nhưng thực chất, theo TS. Trần Thành Nam, đó là một phần tất yếu của quá trình phát triển, là cơ hội để trẻ nhận diện điểm mạnh, điểm yếu, mở rộng tầm nhìn, dám nghĩ và dám làm. Tất nhiên, hành trình ấy có thể đi kèm những va vấp và thất vọng.
Chính vì thế, vai trò của cha mẹ trong giai đoạn này càng trở nên quan trọng: đồng hành nhưng không kiểm soát, lắng nghe thay vì phán xét, hướng dẫn thay vì áp đặt. Khi bố mẹ hiểu đúng về sự thay đổi sinh học lẫn tâm lý của con, trẻ sẽ cảm thấy an toàn, tin cậy và có nền tảng vững vàng để bước qua tuổi dậy thì một cách lành mạnh.
Theo TS.BS. Nguyễn Thu Giang, khi trẻ không được trang bị kiến thức về giới tính, không hiểu về tình dục an toàn, không biết cách tiếp cận các biện pháp bảo vệ, các em dễ rơi vào “vòng xoáy” rủi ro. Phá thai ở tuổi quá trẻ không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất như nguy cơ vô sinh, biến chứng nhiễm trùng, tử vong do phá thai chui…, mà còn để lại những tổn thương sâu sắc về tâm lý: cảm giác tội lỗi, tự ti, trầm cảm, ám ảnh kéo dài. Những hệ lụy này có thể tác động tiêu cực đến nhân cách, sự phát triển cảm xúc và thậm chí là tương lai học tập, nghề nghiệp của các em. “Đó không chỉ là một cú sốc cơ thể mà còn là cú sốc tâm hồn”, bà nhấn mạnh.
Không chỉ dừng lại ở vấn đề mang thai sớm, trẻ thiếu kiến thức còn dễ đối mặt với các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm HIV/AIDS – những hậu quả có thể đi theo cả cuộc đời nếu không được phòng ngừa đúng cách.
Báo động từ thực trạng dậy thì nhưng thiếu kiến thức
Trong khi những bạn bè cùng trang lứa ngày ngày cắp sách đến trường, nuôi dưỡng ước mơ và kỳ vọng về tương lai, thì em T.T.Tr., ngụ tại ấp Kinh Đứng A, xã Khánh Hưng, huyện Trần Văn Thời (tỉnh Cà Mau), lại phải rời lớp học ở tuổi 16 để bớt gánh nặng cho gia đình. Không lâu sau khi nghỉ học, em mang thai và sinh con khi chưa tròn 17 tuổi. Đến nay, khi bạn bè đang chuẩn bị cho kỳ thi cuối cấp hoặc lo tính chuyện học nghề, thì Tr. lại tiếp tục mang thai bé thứ hai.
Khi được hỏi vì sao kết hôn và sinh con quá sớm, em điềm nhiên đáp: “Cha mẹ mai mối. Nghỉ học rồi thì không lấy chồng cũng không biết làm gì.” Lời nói tưởng như đơn giản ấy lại phản ánh một thực tế nhức nhối: nhiều trẻ vị thành niên trở thành vợ, làm mẹ khi chưa hề được trang bị bất kỳ kiến thức khoa học nào về chăm sóc sức khỏe sinh sản hay nuôi dạy con cái.
Tr. chỉ là một trong rất nhiều trường hợp trẻ gái ở vùng nông thôn rơi vào vòng xoáy tảo hôn, mang thai sớm và làm mẹ khi bản thân còn chưa đủ trưởng thành về thể chất lẫn tâm lý.
Ở góc nhìn chuyên môn, TS.BS Nguyễn Thu Giang cho biết, nhận thức của trẻ vị thành niên giữa nông thôn và thành thị có sự khác biệt lớn. Điều này thường chịu tác động mạnh từ môi trường sống, điều kiện tiếp cận thông tin, dinh dưỡng và sự đồng hành của gia đình.
Tại các vùng nông thôn, nhiều phụ huynh còn thiếu hiểu biết về sức khỏe sinh sản, không có điều kiện tiếp cận thông tin mới, nên không thể hướng dẫn hoặc trò chuyện với con về những thay đổi ở tuổi dậy thì. Khi nội tiết phát triển, trẻ xuất hiện các dấu hiệu như lớn nhanh, phát triển cơ thể, tò mò về giới tính… nhưng lại không được trang bị kiến thức để hiểu và tự bảo vệ mình. Điều này khiến nguy cơ mang thai sớm, quan hệ thiếu an toàn hoặc bị xâm hại tăng cao.
Ngược lại, trẻ em ở khu vực thành thị thường được chăm chút về dinh dưỡng, tiếp xúc với truyền thông, mạng xã hội nhiều hơn, nên bước vào giai đoạn dậy thì sớm hơn. Tuy nhiên, việc mở rộng nguồn thông tin cũng kéo theo rủi ro: trẻ có thể tiếp cận kiến thức sai lệch nếu không có sự định hướng đúng từ cha mẹ và nhà trường.
TS.BS Nguyễn Thu Giang chia sẻ: “Thế hệ cha mẹ ngày xưa khác bây giờ rất nhiều. Làm cha mẹ không chỉ dựa vào kinh nghiệm truyền miệng, mà là một quá trình trưởng thành, học hỏi liên tục. Nếu cha mẹ không có đủ kiến thức, trẻ sẽ tự xoay xở trong một thế giới đầy biến động mà không có điểm tựa”.
Ngăn bi kịch bắt đầu từ những bài học nhỏ
Theo PGS.TS. Trần Thành Nam, việc nuôi dạy con trong giai đoạn dậy thì phải dựa trên các bằng chứng khoa học, không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm hay sự né tránh như thói quen của nhiều gia đình Việt Nam. Thực tế, nhiều bố mẹ vẫn cảm thấy xấu hổ khi nói về sức khỏe sinh sản (SKSS), thường dùng những từ ngữ né tránh hoặc ẩn dụ khi đề cập đến bộ phận sinh dục, dẫn đến việc trẻ không nhận được thông tin chuẩn xác ngay từ người đáng tin cậy nhất.
Khi thiếu sự hướng dẫn từ gia đình, phần lớn trẻ tìm kiếm thông tin trên mạng, trong đó có không ít nội dung từ các trang web “đen” - những nguồn chứa thông tin sai lệch, kích thích, thậm chí gây nghiện. “Nếu bố mẹ không dạy thì chính các trang web đen sẽ dạy con”, PGS.TS. Trần Thành Nam nhấn mạnh. Điều này khiến trẻ hình thành những nhận thức méo mó, lệch chuẩn, hoàn toàn không dựa trên cơ sở khoa học.
Ông cũng cho rằng bố mẹ cần hiểu rằng: khi trẻ không có nguồn thông tin đúng, con sẽ bơ vơ giữa biển thông tin sai. Vì vậy, phụ huynh nên chủ động tìm kiếm những nguồn đáng tin như sách đã được kiểm duyệt, tài liệu khoa học, hoặc đưa con đến các cơ sở y tế, chuyên gia có kinh nghiệm để được tư vấn.
PGS.TS. Trần Thành Nam cũng đề cập đến sự hạn chế của chương trình giáo dục giới tính hiện nay trong trường học: “Nội dung có nhưng đôi khi chỉ mang tính hình thức, nói cho có chứ không giải quyết vấn đề. Học sinh thì nghĩ rằng mình biết rồi, nhưng lại biết sai”.
Để khắc phục, ông đề xuất đưa vào nhà trường những chương trình giáo dục giới tính đã được chứng minh là hiệu quả trên thế giới, những chương trình dựa trên nghiên cứu, có phương pháp và có kiểm chứng.
Một vấn đề khác khiến trẻ ngần ngại chia sẻ là cách phản ứng của bố mẹ. Nhiều phụ huynh làm trầm trọng hóa mọi chuyện, vô tình khiến con cảm thấy xấu hổ, dẫn đến khoảng cách thế hệ ngày càng lớn. Điều trẻ cần là một thái độ cởi mở, một không gian an toàn để trò chuyện. Bố mẹ có thể bắt đầu từ những thông điệp đơn giản như: “Nếu có người thích con, con phải có trách nhiệm với bản thân và với bạn ấy”.
Cuối cùng, để đồng hành cùng con hiệu quả, bố mẹ cần hiểu căn nguyên của những hành vi rủi ro: tại sao trẻ quan hệ không an toàn, tại sao trẻ có hành động nổi loạn? Nhiều trường hợp, khi trẻ chịu áp lực, căng thẳng hoặc bị kiểm soát quá mức, các em sẽ phản ứng bằng những lựa chọn bộc phát, như một cách gửi thông điệp rằng “con có thể tự quyết định cuộc đời mình”. Nhận diện được điều này sẽ giúp bố mẹ điều chỉnh cách giao tiếp, giảm áp lực và tạo cơ hội để con chia sẻ nhiều hơn.
TS.BS. Nguyễn Thu Giang cho rằng vai trò của gia đình trong giáo dục giới tính là vô cùng quan trọng. Bà dẫn ví dụ từ Nhật Bản – nơi mà bố mẹ thường xuyên duy trì những hoạt động sinh hoạt chung theo độ tuổi của trẻ, qua đó lồng ghép những bài học tự nhiên về cơ thể, giới tính và sự tôn trọng bản thân. Những tương tác đời thường, dù rất nhỏ, lại giúp trẻ cảm nhận sự an toàn, tin tưởng và hình thành thái độ nghiêm túc, tích cực đối với SKSS.
“Khi cái cây còn non, nếu được chăm sóc đúng cách, nó sẽ lớn lên khỏe mạnh. Trẻ em cũng vậy. Giáo dục giới tính và SKSS tốt từ sớm sẽ tạo cho các em niềm tin vào chính mình và sự an tâm khi đối diện với những thay đổi của cơ thể”, bà Giang nhấn mạnh.
Like fanpage để theo dõi thông tin mới nhất










