Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh: Quyết tâm từ chính sách đến hành động
Mất cân bằng giới tính khi sinh là thách thức đối với sự phát triển bền vững của quốc gia, Việt Nam đang kiên trì hành động để giảm thiểu tình trạng này. Nhân Ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10), cuộc trao đổi với BS. Mai Xuân Phương - nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Truyền thông và Giáo dục, Tổng cục Dân số, Bộ Y tế hé mở thêm những góc nhìn sâu sắc về quyết tâm này.
Nhân Ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10), cuộc trao đổi với BS. Mai Xuân Phương - nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Truyền thông và Giáo dục, Tổng cục Dân số, Bộ Y tế hé mở thêm những góc nhìn sâu sắc về quyết tâm này.
PV. Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Ông có thể điểm qua một số chính sách nổi bật và hiệu quả thưa bác sĩ?
BS. Mai Xuân Phương: Có thể nói, Việt Nam đã có bước đi bài bản, quyết liệt với hàng loạt chính sách then chốt. Tôi xin điểm lại một số chính sách nổi bật và hiệu quả trong thời gian qua của Việt Nam:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước đã ban hành một loạt các chính sách, chủ trương lớn nhằm đảm bảo cân bằng giới tính khi sinh như: Nghị quyết số 21-NQ/TW (2017) của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới: Xác định rõ giảm mất cân bằng giới tính khi sinh là một trong 8 mục tiêu trọng tâm; Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 (Quyết định 1679/QĐ-TTg, 2019): Đặt mục tiêu đến 2030 đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; Luật Bình đẳng giới (2006) và các chương trình quốc gia về bình đẳng giới, phòng chống phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái.
Thứ hai, ngành dân số cũng triển khai các giải pháp cụ thể như: Cấm lựa chọn giới tính thai nhi - được quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình (Điểm g, Khoản 2, Điều 5: Cấm các hành vi sau đây: g, Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính), Luật Bình đẳng giới (Điểm b, khoản 7, Điều 40 Luật Bình đẳng giới: 7. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế bao gồm: b) Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi.), Pháp lệnh dân số,… kèm theo chế tài xử phạt hành vi chẩn đoán, tiết lộ, lựa chọn giới tính thai nhi.
Đề án kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh (2016–2025): Tập trung vào 5 nhóm giải pháp: Truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi (nâng cao giá trị của trẻ em gái, xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ); Hoàn thiện pháp luật và tăng cường thanh tra, xử lý vi phạm (các cơ sở siêu âm, phá thai vì giới tính); Nâng cao quyền năng của phụ nữ và trẻ em gái (tiếp cận giáo dục, việc làm, chính sách an sinh); Lồng ghép bình đẳng giới vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội; Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên trong vận động cộng đồng.
Nhờ đó, tỷ số giới tính khi sinh đã giảm dần từ 112,8 bé trai/100 bé gái (năm 2006) xuống khoảng khoảng 111,2 bé trai/100 bé gái (2020) và đến nay có dấu hiệu ổn định ở mức 111–112 bé trai/100 bé gái.

Một số địa phương từng ở mức báo động như Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Phòng đã ghi nhận chuyển biến tích cực nhờ các mô hình thí điểm truyền thông cộng đồng và hỗ trợ trực tiếp cho trẻ em gái. Cùng với đó, nhận thức xã hội được nâng lên, nhiều gia đình, đặc biệt ở đô thị, đã cởi mở hơn với việc sinh con gái; giá trị “con nào cũng quý” dần lan tỏa.
Như vậy, có thể thấy chính sách – pháp luật – hành động cộng đồng đang song hành, từng bước khẳng định quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong việc giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, gắn với bình đẳng giới và phát triển bền vững.
PV. Theo ông những cam kết và hành động của Việt Nam trong việc bảo đảm bình đẳng giới, đặc biệt là hưởng ứng Ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10), đã tạo ra sự thay đổi như thế nào trong xã hội?
BS. Mai Xuân Phương: Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều cam kết mạnh mẽ và hành động cụ thể nhằm bảo đảm bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, trẻ em gái. Đặc biệt, hưởng ứng Ngày Quốc tế Trẻ em gái (11/10), các chương trình, chính sách đã tạo ra những thay đổi rõ rệt:
Về giáo dục: Tỷ lệ trẻ em gái được đến trường, học lên trung học phổ thông và đại học ngày càng tăng; khoảng cách giới trong tiếp cận giáo dục cơ bản gần như được xóa bỏ.
Về y tế và sức khỏe sinh sản: Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và vị thành niên được mở rộng, góp phần giảm tỷ lệ tử vong mẹ và nâng cao hiểu biết về sức khỏe sinh sản cho trẻ em gái.
Về vai trò xã hội và lãnh đạo: Ngày càng nhiều phụ nữ, trẻ em gái được khuyến khích tham gia vào các hoạt động xã hội, khoa học, công nghệ, thể thao… và vươn lên nắm giữ vị trí lãnh đạo.
Về bảo vệ pháp luật: Các chính sách pháp luật đã góp phần giảm tảo hôn, bạo lực giới và hạn chế tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.
Nhờ những cam kết và hành động đó, hình ảnh người phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam ngày càng được khẳng định: tự tin hơn, bình đẳng hơn, có nhiều cơ hội hơn để phát triển toàn diện và đóng góp cho đất nước.
PV. Về phía ngành dân số, các giải pháp cụ thể nào đã được triển khai để giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh thưa ông?
BS. Mai Xuân Phương: Về phía ngành Dân số, trong những năm qua đã triển khai nhiều giải pháp cụ thể để giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS), có thể tóm lại thành 4 nhóm chính:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật: Ban hành và thực thi các văn bản cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức; Lồng ghép mục tiêu giảm MCBGTKS vào Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030.
Thứ hai, truyền thông – giáo dục chuyển đổi hành vi: Tổ chức các chiến dịch truyền thông sâu rộng về bình đẳng giới, giá trị của con gái; Đưa nội dung giáo dục dân số, giới tính, bình đẳng giới vào trường học và cộng đồng.
Thứ ba, dịch vụ và kỹ thuật: Tăng cường giám sát các cơ sở y tế, xử lý nghiêm hành vi chẩn đoán, tiết lộ giới tính thai nhi; Tư vấn sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình cho các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ.
Thứ tư, mô hình, phong trào cộng đồng: Nhân rộng các mô hình “Làng không có mất cân bằng giới tính khi sinh”, “Địa chỉ tin cậy hỗ trợ phụ nữ và trẻ em”; Khen thưởng, tôn vinh gia đình sinh con một bề gái nhưng vẫn nuôi dạy con tốt, thành đạt.
Nhờ các giải pháp này, tốc độ gia tăng MCBGTKS đã được kiềm chế, dù còn nhiều khó khăn, nhưng đang dần thay đổi nhận thức xã hội theo hướng tích cực hơn.

PV. Nhân Ngày Quốc tế trẻ em gái 11/10, bác sĩ có thông điệp gì muốn gửi gắm tới cộng đồng và đặc biệt là các bậc cha mẹ?
BS. Mai Xuân Phương: Tôi muốn nhấn mạnh rằng, mỗi bé gái đều xứng đáng được yêu thương, được học tập và được sống an toàn, hạnh phúc như bất kỳ đứa trẻ nào khác. Các bậc cha mẹ hãy trân trọng giá trị của con gái, nuôi dạy các em bằng niềm tin, niềm tự hào và tình yêu thương vô điều kiện.
Khi chúng ta trao cho con gái cơ hội bình đẳng, đó không chỉ là mang lại niềm hạnh phúc cho gia đình, mà còn là cách chúng ta gửi gắm sức mạnh, sự bền vững cho tương lai của đất nước.
Trân trọng cảm ơn ông vì những chia sẻ ý nghĩa!
Like fanpage để theo dõi thông tin mới nhất