12:00 15/11/2025

Chính sách chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên: Bảo vệ tương lai giống nòi ngay từ hôm nay

Icon No Avatar Tre Em Viet Nam Lại Cường

Trong bối cảnh dân số Việt Nam bước vào giai đoạn chuyển tiếp, chất lượng con người và khả năng phát triển bền vững trở thành ưu tiên hàng đầu.

Trong đó, chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên (SKSSVTN) được xem như một mắt xích chiến lược, ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai dân số và chất lượng nguồn nhân lực quốc gia.

Người trẻ đang là trung tâm chiến lược dân số trong nhiều hoạt động

Thực tế cho thấy, nhiều thanh thiếu niên vẫn thiếu kiến thức cơ bản về sức khỏe sinh sản (SKSS) dẫn đến các nguy cơ mang thai sớm, lạm dụng tình dục hay các hành vi tình dục không an toàn.

Thông tin từ chương trình “Chăm sóc sức khỏe sinh sản cho trẻ tuổi dậy thì” (Do Báo Sức khỏe & Đời sống, thực hiện ngày 14/11/2025) cho thấy việc giáo dục SKSS nói chung, vị thành niên nói riêng tại nhiều địa phương vẫn còn hạn chế, đặc biệt ở vùng dân tộc thiểu số. Hơn nữa, nhận thức về dân số và SKSS giữa các vùng miền còn chênh lệch, đòi hỏi chính sách cần đi sát thực tiễn và tăng cường giáo dục tại cơ sở.

Năm 2025, Nghị định 66/2025/NĐ‑CP chính thức có hiệu lực, mở rộng quyền tiếp cận giáo dục giới tính và dịch vụ SKSS cho học sinh, đặc biệt là nhóm DTTS. Theo đó, các trường học vùng cao được khuyến khích tích hợp nội dung giáo dục giới tính vào hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm và tư vấn học đường. Đây là bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo cho đối tượng thanh thiếu niên, nhất là các nhóm dễ tổn thương – được tiếp cận thông tin chính xác, dịch vụ thân thiện và hỗ trợ y tế phù hợp.

Dongngac
Một chương trình chăm sóc sức khỏe tại trường THCS Đông Ngạc (Hà Nội). Ảnh: FB nhà trường

Song song với đó, Đề án Chăm sóc SKSSVTN giai đoạn 2021–2025 đặt ra mục tiêu: đến năm 2025, ít nhất 60% vị thành niên thuộc nhóm yếu thế có hành vi tình dục an toàn, giảm mang thai ngoài ý muốn và nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Những chính sách này khẳng định một điều rõ ràng: người trẻ không còn là đối tượng thụ động, mà là trung tâm của các chiến lược dân số.

Điểm sáng trong triển khai chính sách là sự tham gia chủ động của thanh thiếu niên. Các mô hình do UNFPA hỗ trợ – từ 2024 đến 2025 – cho thấy người trẻ không chỉ tiếp nhận thông điệp mà còn trở thành tuyên truyền viên.

Theo ông Nguyễn Đức Vinh, Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ – Trẻ em, Bộ Y tế, nhấn mạnh: “Công tác dân số không chỉ là đếm người, mà là chăm lo để mỗi người dân, nhất là người trẻ được phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần.”

Chương trình Sức khỏe Thanh thiếu niên Việt Nam giai đoạn 2 (2023 – 2025) phối hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, AstraZeneca và Plan International đã tập trung nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần và SKSS cho thanh thiếu niên Việt Nam. Đồng thời, các trường vùng dân tộc thiểu số đã sử dụng khung pháp lý của Nghị định 66 để triển khai giáo dục giới tính trong hoạt động ngoại khóa, giúp học sinh được tiếp cận thông tin an toàn, thân thiện.

Cùng với đó, UNFPA đã phối hợp với địa phương hỗ trợ đào tạo thanh niên làm cộng tác viên SKSS, tạo cầu nối giữa hệ thống y tế và cộng đồng. Tại Ba Đình (Hà Nội), câu lạc bộ “Bạn trẻ kết nối dân số” tổ chức các buổi sinh hoạt, trao đổi về hôn nhân, giới tính, quyền lựa chọn – chứng minh rằng chính sách kết hợp thực tiễn, đồng hành cùng người trẻ tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ.

Chăm sóc SKSSVTN là đầu tư vào chất lượng dân số và nguồn nhân lực tương lai. Khi người trẻ được trang bị kiến thức, tham gia truyền thông và được hỗ trợ dịch vụ thân thiện, họ trở thành lực lượng tiên phong bảo vệ sức khỏe bản thân và lan tỏa nhận thức đến cộng đồng.

Nhiều mô hình hay từ các địa phương

Theo thống kê của Vụ Sức khỏe bà mẹ - trẻ em (Bộ Y tế), mỗi năm cả nước ghi nhận khoảng 300 đến 400 ngàn ca phá thai ở độ tuổi 15 - 19; trong đó 60 - 70% là học sinh, sinh viên. Tổng cục Dân số cho biết, dù tỷ lệ phá thai chung trong cả nước có xu hướng giảm, song tỷ lệ phá thai ở trẻ VTN và thanh niên lại tăng, chiếm hơn 20% tổng số ca.

Trong khi đó, nhiều phụ huynh còn e ngại, né tránh khi đề cập đến vấn đề giới tính, khiến các em thường tìm kiếm thông tin từ mạng xã hội hoặc bạn bè - nguồn thông tin thiếu chính xác, dễ gây lệch lạc nhận thức và hành vi.

Từ khi các chính sách về dân số mở đường, các địa phương cũng đã chung tay vào cuộc. Theo khảo sát của phóng viên, nhiều mô hình, nhiều nhóm, câu lạc bộ đã được ra đời tại các địa phương và hoạt động bước đầu có những hiệu quả rõ rệt.

Có thể nhắc đến một số dự án tại Yên Bái như: Dự án “Improving Adolescent Sexual and Reproductive Healthcare (ASRH)” (2023–2025) (Tạm dịch: Dự án Cải thiện chăm sóc sức khỏe sinh sản và tình dục vị thành niên).

Dự án do Save the Children triển khai, tài trợ bởi Daiichi Sankyo, nhắm tới hơn 3.000 thanh thiếu niên ở các huyện Mù Cang Chải và Văn Chấn.

Báo cáo đánh giá cuối dự án cho thấy kiến thức, hành vi và khả năng tiếp cận dịch vụ ASRH ở các em thanh thiếu niên dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt thông qua các buổi tư vấn, mô hình peer-education và dịch vụ thân thiện.

Ngành Y tế Quảng Ninh đã triển khai hàng trăm buổi truyền thông SKSS tại các trường học. Từ đầu năm 2025 đến nay đã tổ chức gần 460 buổi, tiếp cận hơn 21.400 lượt học sinh, thanh niên và trẻ vị thành niên. Bên cạnh đó, các hoạt động điều tra hành vi sức khỏe học sinh được tiến hành để làm cơ sở chính sách địa phương. (Những con số và hoạt động này được Sở Y tế và báo địa phương công bố).

pic%201[1]
Hoạt động của dự án “Cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và tình dục vị thành niên tại tỉnh Yên Bái” trong tháng 3, 2024. Ảnh: daiichisankyo

Thành phố Huế có “Câu lạc bộ tiền hôn nhân và vị thành niên”: Hệ thống trạm y tế và Đoàn Thanh niên tại Huế phối hợp tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ, đối thoại và tư vấn cho học sinh THPT; theo báo cáo của địa phương, mô hình này thu hút hàng nghìn lượt học sinh tham gia, giúp tăng kỹ năng tự bảo vệ và hiểu biết về SKSS.

Đồng Tháp — Dịch vụ thân thiện với thanh thiếu niên: Tỉnh triển khai dự án tăng cường dịch vụ thân thiện, phối hợp với các trường và trạm y tế; báo cáo địa phương cho thấy tỷ lệ học sinh nữ đi khám SKSS định kỳ tăng khoảng 25% chỉ sau một năm triển khai, minh chứng cho hiệu quả khi dịch vụ kết hợp truyền thông và tiếp cận.

Các tỉnh như Yên Bái, Lai Châu, Kon Tum — Mô hình peer educators / youth-led: UNFPA và các đối tác hỗ trợ đào tạo peer educators (cộng tác viên trẻ), giúp thanh thiếu niên trở thành tuyên truyền viên, cung cấp thông tin SKSS chuẩn mực cho bạn bè và cộng đồng. Mô hình này được báo chí và thông cáo của UNFPA nêu rõ là tạo được môi trường trao đổi an toàn cho nhóm thanh thiếu niên dân tộc thiểu số và vùng sâu, vùng xa.

Các mô hình giảm tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống: Nhiều tỉnh đã triển khai câu lạc bộ “Học sinh nói không với tảo hôn”, hoạt động sinh hoạt ngoại khóa, tư vấn gia đình; báo chí phản ánh những kết quả bước đầu trong giảm tỉ lệ tảo hôn tại một số huyện/thị.

Sự phát triển của các địa phương cho thấy: khi chính sách được “đặt đúng chỗ” nghĩa là có đội ngũ thực thi ở cơ sở, có tài liệu phù hợp, có sự đồng hành của cộng đồng và của chính người trẻ thì hiệu quả thay đổi hành vi có thể đạt được trong thời gian ngắn.

Phong trào “Kết hôn muộn, ít con – lựa chọn của người trẻ hay thách thức của quốc gia?” cũng là minh chứng sinh động. Chương trình thu hút hàng nghìn học sinh, sinh viên tham gia trao đổi trực tuyến về hôn nhân, sinh con và quyền lựa chọn cá nhân. Thông qua các buổi đối thoại, thanh niên hiểu rõ hơn trách nhiệm của mình với bản thân, gia đình và xã hội.

Theo nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Thu Giang, chuyên gia SKSS vị thành niên cho biết: “Các mô hình do thanh thiếu niên làm chủ, như câu lạc bộ Peer educator, hiệu quả hơn nhiều so với truyền thông một chiều. Khi người trẻ tự nói, tự chia sẻ, họ lan tỏa thông tin chính xác đến bạn bè, giảm rủi ro mang thai sớm hoặc hành vi không an toàn.”

Tuy nhiên, con đường phía trước vẫn có nhiều chông gai. Nguồn lực y tế, đặc biệt là nhân viên y tế hiểu SKSS vị thành niên, tại vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế. Một số phụ huynh vẫn rất ngại chia sẻ với con về giới tính, khiến nhiều em không dám đặt câu hỏi hay tìm kiếm sự trợ giúp. Hơn nữa, để đánh giá hiệu quả thực sự của các mô hình hiện nay, cần có hệ thống giám sát, thu thập dữ liệu định kỳ: tỷ lệ mang thai vị thành niên, việc tham gia khám SKSS, sử dụng biện pháp tránh thai… Nếu dữ liệu không rõ ràng, rất khó để điều chỉnh chính sách phù hợp hơn.

Vì vậy, trong thời gian tới, tiếp tục khuyến khích mô hình peer-education ở trường học, đặc biệt vùng DTTS; đầu tư mạnh vào đào tạo nhân viên y tế và giáo viên để họ nói chuyện được với thanh thiếu niên; và xây dựng hệ thống giám sát SKSSVTN toàn quốc để đảm bảo can thiệp hiệu quả, bền vững.

Tiếp tục khuyến khích và tài trợ các mô hình do thanh thiếu niên làm chủ, đặc biệt tại vùng DTTS; đào tạo nhân viên y tế và giáo viên về SKSS và giao tiếp vị thành niên; xây dựng hệ thống giám sát đánh giá hiệu quả chương trình SKSSVTN; thúc đẩy liên ngành giáo dục – y tế – Đoàn Thanh niên triển khai các mô hình toàn diện, gắn kết cộng đồng.

Cùng với đó, ngày 9/9/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 72-NQ-TW của về một số giải pháp đột phá trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Đây chính là văn kiện mở đường cho nhiều mô hình chăm sóc sức khỏe nhân dân nói chung, chăm sóc sức khỏe vị thành niên nói riêng có cơ hội bứt phá. Nâng cao chấ lượng dân số.

Like fanpage để theo dõi thông tin mới nhất


Bình luận