Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong giáo dục
PGS.TS Phạm Văn Thuần - Giám đốc Học viện Quản lý Giáo dục nhận định, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã và đang trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Ngày 17/10, Học viện Quản lý Giáo dục phối hợp với Tạp chí Giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo) tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề "Phát triển Khoa học Công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số Quốc gia trong giáo dục”, với sự tham dự của nhiều nhà giáo - nhà khoa học uy tín như: GS.TS Trần Văn Nhung - nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; PGS.TS Đặng Quốc Bảo - nguyên Hiệu trưởng Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục và Đào tạo (nay là Học viện Quản lý Giáo dục); GS.TS Phạm Hồng Quang - Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo dục ngành Khoa học giáo dục; GS.TS Khoa học Hà Đình Đức - nguyên Trưởng Ban Đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội; GS.TS Trần Trung - Giám đốc Học viện Dân tộc...

Phát biểu tại hội thảo, PGS.TS Phạm Văn Thuần - Giám đốc Học viện Quản lý Giáo dục cho biết, vừa qua Bộ Chính trị đã ban hành bộ tứ Nghị quyết, trong đó có Nghị quyết số 57/NQ-TW, về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết số 71/NQ-TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã và đang trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Ngành giáo dục - với vai trò là “quốc sách hàng đầu”– không thể đứng ngoài tiến trình đó.
Những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo, và chuyển đổi số trong giáo dục – từ công tác quản lý/quản trị, đến hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng thì vai trò của các cơ sở giáo dục đại học, các viện nghiên cứu phải là những đơn vị tiên phong trong từng lĩnh vực hoạt động của mình, và là hướng đi chiến lược và bền vững trong tương lai.
Với Việt Nam, chuyển đổi số giáo dục không chỉ là yêu cầu hội nhập mà còn là động lực then chốt cho sự phát triển đất nước, góp phần hình thành công dân số, xây dựng xã hội học tập và tạo nền tảng tri thức cho nền kinh tế tri thức quốc gia.

Hội thảo tập trung vào năm định hướng nghiên cứu chính: Thứ nhất, hoàn thiện luận cứ khoa học và thể chế quản lý giáo dục, phát triển hệ thống, mạng lưới và mô hình giáo dục thích ứng với thời đại số;
Thứ hai, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số;
Thứ ba, đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá theo hướng số hóa và cá nhân hóa việc học;
Thứ tư, nghiên cứu về văn hóa và quản trị nhà trường trong bối cảnh chuyển đổi số;
Thứ năm, ứng dụng công nghệ tiên tiến, khoa học dữ liệu và trí tuệ nhân tạo để nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng cơ hội học tập, bảo đảm công bằng trong tiếp cận tri thức. Thông qua đó, Hội thảo góp phần thúc đẩy hình thành văn hóa số, năng lực số và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo giáo dục, đóng góp thiết thực vào mục tiêu xây dựng quốc gia số và xã hội học tập trong giai đoạn mới.

Ban tổ chức đã nhận được hơn hơn 100 bài báo khoa học gửi về, bình duyệt và lựa chọn và duyệt đăng được 68 bài báo trong Tạp chí Giáo dục hoặc Tạp chí Quản lý giáo dục. Dựa trên các công trình gửi về, có thể nhận diện ba chủ đề nổi bật tạo thành mạch xuyên suốt như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về đổi mới quản lí và phát triển năng lực số trong bối cảnh chuyển đổi số giáo dục tập trung làm rõ các vấn đề từ lý luận đến thực tiễn trong việc hình thành, bồi dưỡng và chuẩn hóa năng lực số cho đội ngũ quản lí, giảng viên và giáo viên. Các nghiên cứu cho thấy yêu cầu cấp thiết của việc xây dựng mô hình quản trị nhà trường thông minh, gắn tự chủ với quản trị dữ liệu, đồng thời chuyển đổi từ mô hình quản lí hành chính sang quản trị dựa trên năng lực số và ra quyết định bằng dữ liệu.
Từ các kết quả nghiên cứu này, có thể rút ra một số hàm ý chính sách quan trọng như: cần ban hành khung năng lực số quốc gia cho cán bộ quản lí giáo dục, đồng thời quy định lộ trình bồi dưỡng bắt buộc theo cấp độ; thúc đẩy cơ chế tự chủ gắn với chuyển đổi số ở các cơ sở giáo dục; và thiết lập nền tảng chia sẻ dữ liệu giáo dục mở nhằm hỗ trợ ra quyết định chính sách công hiệu quả hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện nay mới dừng lại ở việc mô tả hiện trạng và khuyến nghị định hướng, chưa đi sâu vào đo lường tác động cụ thể của năng lực số đến hiệu quả quản trị và chất lượng đào tạo – đây là khoảng trống cần được tiếp tục nghiên cứu trong giai đoạn tới.
Thứ hai, nghiên cứu về ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ mới trong dạy học thể hiện bước tiến mạnh mẽ của giáo dục Việt Nam trong việc khai thác các công nghệ mới để cá nhân hóa việc học, đổi mới đánh giá và hỗ trợ phát triển năng lực người học. Nhiều công trình tập trung vào xây dựng khung năng lực ứng dụng AI cho giáo viên, mô hình lớp học tích hợp AI, thực tế ảo (VR/AR) hay chatbot hỗ trợ tự học.
Dù cách tiếp cận rất đa dạng và chưa thống nhất, các kết quả nghiên cứu cũng đã mở ra hướng đi rõ ràng: AI không chỉ là công cụ hỗ trợ mà đang trở thành nền tảng thúc đẩy sự chuyển đổi căn bản của phương pháp dạy học và đánh giá trong giáo dục Việt Nam. Hàm ý chính sách có thể đặt ra là: cần thiết lập chuẩn năng lực ứng dụng AI trong đào tạo và bồi dưỡng giáo viên; ưu tiên đầu tư hạ tầng dữ liệu giáo dục mở, cơ sở dữ liệu học tập (learning analytics) và công nghệ hỗ trợ giảng dạy số; đồng thời, cần khuyến khích các dự án thí điểm, nghiên cứu thực nghiệm về ứng dụng AI và VR/AR ở các cấp học khác nhau để tạo cơ sở khoa học cho việc nhân rộng. Một thách thức mà các nghiên cứu cũng chỉ ra là vấn đề đạo đức và an toàn dữ liệu trong môi trường học tập số.
Thứ ba, nghiên cứu về phát triển chương trình, phương pháp và mô hình sư phạm tích hợp (STEM, STEAM, lớp học đảo ngược, mô hình 5E, học theo dự án, CLIL, giáo dục công dân số…) thể hiện sự chuyển dịch rõ rệt từ dạy học theo nội dung sang phát triển năng lực và phẩm chất người học. Nhiều công trình tập trung vào việc thiết kế bài học tích hợp liên môn, xây dựng chủ đề gắn với bối cảnh thực tiễn, hoặc phát triển năng lực giải quyết vấn đề, sáng tạo, hợp tác cho học sinh các cấp.
Hướng nghiên cứu này gợi mở hàm ý chính sách quan trọng cho việc điều chỉnh Chương trình giáo dục phổ thông 2018 trong giai đoạn tiếp theo, theo hướng tăng cường các mạch nội dung tích hợp STEM – công dân số, và gắn dạy học với bối cảnh thực tiễn địa phương. Đồng thời, việc thúc đẩy mô hình hợp tác giữa trường đại học, trường phổ thông và doanh nghiệp công nghệ là cần thiết để xây dựng hệ sinh thái học tập sáng tạo. Dù vậy, các nghiên cứu vẫn cần đi sâu hơn vào đánh giá hiệu quả lâu dài của các mô hình tích hợp này đối với năng lực học sinh, cũng như xây dựng công cụ đánh giá năng lực tích hợp phù hợp với từng cấp học.

Trao đổi tại Hội thảo, ông Nguyễn Sơn Hải - Phó Cục trưởng Cục Khoa học Công nghệ và Thông tin (Bộ GD&ĐT) nhấn mạnh, Nghị quyết 57 xác định, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phát quan trọng hàng đầu, động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển phương thức sản xuất, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.
Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo là định hướng tương lai cho giáo dục. Nghị quyết xác định nhiều giải pháp đột phá, với có 8 nhiệm vụ trọng tâm
Trong đó, ông Nguyễn Sơn Hải nhấn mạnh đến 2 nhiệm vụ là: Thứ nhất, chuyển đổi số toàn diện, phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào tạo;
Thứ hai, hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.
Ông Nguyễn Sơn Hải khẳng định, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là động lực phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là nền tảng để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, hướng tới mục tiêu hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên số.
Bộ GD&ĐT luôn coi nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ là một trong những trụ cột quan trọng của giáo dục đại học và đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước; khuyến khích các cơ sở giáo dục, các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp công nghệ tiếp tục tăng cường hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm và triển khai các mô hình đổi mới sáng tạo hiệu quả, thiết thực, phục vụ cho công cuộc chuyển đổi số toàn ngành.
Học viện Quản lý giáo dục là cơ sở giáo dục đại học có chức năng đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu, tư vấn chính sách về lĩnh vực khoa học Quản lý giáo dục và các lĩnh vực liên quan mà Học viện có thế mạnh nhằm đáp ứng những yêu cầu của chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo của đất nước. Học viện là đơn vị chuyển giao các chủ trương, chính sách, chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Đảng, Nhà nước trực tiếp tới đội ngũ cán bộ quản lý, các cơ sở giáo dục trong toàn quốc
Tạp chí Giáo dục là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ GD và ĐT, có nhiệm vụ tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục; công bố kết quả nghiên cứu giáo dục, phản ánh những thành tựu lí luận và thực tiễn giáo dục Việt Nam.
Like fanpage để theo dõi thông tin mới nhất