16:52 26/11/2025

Đề xuất hơn 125 nghìn tỷ cho Chương trình chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển 2026–2035

Icon No Avatar Tre Em Viet Nam Lại Duy Cường

Dự thảo Chương trình Mục tiêu Quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển 2026–2035 là bước thể chế hóa một loạt chủ trương lớn về y tế — dân số; nội dung và quy mô đầu tư phản ánh tham vọng nâng cao sức khỏe toàn dân và ứng phó già hóa dân số

Sáng 25/11/2025, tại Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XV đã nghe Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan thừa ủy quyền Thủ tướng trình bày Tờ trình và sau đó là Báo cáo thẩm tra về Chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu Quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026–2035. Đây là chương trình có quy mô toàn quốc, thời gian thực hiện 10 năm, với tổng mức đầu tư đề xuất 125.478 tỷ đồng, được đề xuất thực hiện theo hai giai đoạn (2026–2030 và 2031–2035) và Bộ Y tế được giao làm cơ quan chủ trì.

251120250827-z7259505788482_ae45d6feb2dc48f39530fe627225ef03[1]
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan trình bày tóm tắt tờ Trình. Ảnh: Quochoi.vn

Mục tiêu tổng quát mà Tờ trình nêu ra hướng đến là nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; bảo đảm mọi người dân được quản lý và chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng, chủ động phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở; đồng thời xử lý các vấn đề dân số ưu tiên trong bối cảnh già hóa, nâng cao chất lượng dân số và tăng cường chăm sóc cho các nhóm yếu thế. Những mục tiêu này được mở rộng thành loạt mục tiêu cụ thể, trong đó có cam kết đưa tỷ lệ xã, phường đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã lên 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; hoàn thiện sổ sức khỏe điện tử theo vòng đời đạt 100% người dân vào năm 2030; nâng cao năng lực xét nghiệm của CDC các tỉnh, thành phố; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi xuống dưới 15% vào 2030 và dưới 13% vào 2035; cùng các chỉ tiêu về nâng tỷ suất sinh thô, giảm tỷ số giới tính khi sinh và mở rộng tầm soát bệnh bẩm sinh cho phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh.

Về phạm vi thụ hưởng, chương trình hướng tới toàn bộ người dân Việt Nam nhưng ưu tiên nguồn lực cho những nhóm dễ bị tổn thương: người dân ở vùng khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo; người khuyết tật và các nhóm yếu thế; bà mẹ và trẻ em; thanh thiếu niên; các cặp vợ chồng và cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ; người có công; người cao tuổi; người di cư và lao động tại các khu công nghiệp. Địa bàn triển khai là các tỉnh, thành phố trên toàn quốc, với ưu tiên khu vực khó khăn. Báo Nhân Dân điện tử

Cấu trúc chương trình theo đề xuất gồm năm dự án thành phần: nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở; nâng cao hiệu quả hệ thống phòng bệnh và nâng cao sức khỏe; dân số và phát triển; nâng cao chất lượng chăm sóc xã hội cho người yếu thế; và truyền thông y tế cùng quản lý, theo dõi, giám sát thực hiện chương trình. Các dự án này liên kết với mục tiêu phủ rộng y tế cơ sở, phòng bệnh sớm, số hóa hồ sơ sức khỏe và mở rộng hệ thống tầm soát, điều trị các bệnh không lây.

Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, qua báo cáo thẩm tra do Chủ nhiệm Nguyễn Đắc Vinh trình bày, cơ bản tán thành sự cần thiết và các nội dung chủ yếu của chương trình, đồng thời đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát để tránh trùng lắp với các chương trình mục tiêu quốc gia khác, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư, và làm rõ hơn cơ chế phối hợp, nguồn lực và các chỉ tiêu thực tế để bảo đảm khả thi. Vấn đề nguồn vốn được Ủy ban đặc biệt lưu ý: cần xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm bố trí đủ vốn tối thiểu, cân đối hợp lý giữa nội dung chăm sóc sức khỏe và nội dung dân số — hiện phương án đề xuất cho phần dân số dự kiến chiếm khoảng 15,5% tổng mức đầu tư giai đoạn 2026–2030 — cũng như tính toán khả năng huy động vốn từ ngân sách địa phương và giải pháp xã hội hóa để giảm áp lực cho ngân sách Trung ương. Ủy ban còn đề nghị bổ sung người khuyết tật vào danh sách đối tượng ưu tiên và xem xét các cơ chế đặc thù cho địa phương khó khăn không phải bố trí vốn đối ứng.

Những điểm cần lưu ý về tính khả thi và rủi ro triển khai chương trình xuất phát từ thực tế phân bổ ngân sách địa phương, năng lực quản lý, và khả năng tổ chức thực hiện ở y tế cơ sở. Việc hướng tới 100% sổ sức khỏe điện tử và 100% trung tâm CDC tỉnh đủ năng lực xét nghiệm đòi hỏi không chỉ nguồn đầu tư cho cơ sở vật chất, trang thiết bị và công nghệ, mà còn cần kế hoạch dài hạn về đào tạo nhân lực, bảo trì thiết bị và đồng bộ hóa dữ liệu y tế giữa các cấp. Nếu không được cân đối kỹ, có nguy cơ xuất hiện các dự án “cứng” về hạ tầng nhưng thiếu bền vững về vận hành, hoặc ngược lại đầu tư cho chương trình dân số quá nhỏ so với nhu cầu can thiệp. Những lo ngại này được nhiều đại biểu nêu khi thảo luận ở tổ, từ góc độ phân bổ nguồn lực và hiệu quả đầu tư.

Ngoài việc quán triệt mục tiêu phòng bệnh sớm và củng cố y tế cơ sở, báo cáo thẩm tra cũng đề nghị Chính phủ xem xét bổ sung nội dung phát huy thế mạnh y học cổ truyền và dược liệu, cùng các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn thực phẩm, để thể chế hóa tinh thần Nghị quyết số 72 của Bộ Chính trị. Đồng thời cơ quan thẩm tra yêu cầu chỉnh lý các chỉ tiêu, tiêu chí, cũng như cấu trúc các tiểu dự án để tránh dàn trải và tạo điều kiện thuận lợi cho kiểm tra, giám sát, và đánh giá kết quả theo nguyên tắc quản lý dựa trên kết quả.

Về chính sách huy động nguồn vốn, văn bản đề xuất nêu rõ sẽ sử dụng nguồn ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, nguồn đóng góp hợp pháp của xã hội và các cơ chế huy động hợp pháp khác. Tuy nhiên, Ủy ban thẩm tra yêu cầu làm rõ hơn tỷ lệ phân bổ giữa Trung ương và địa phương, phương án hỗ trợ cho địa phương khó khăn không có khả năng đối ứng và cơ chế kiểm soát để tránh lặp đầu tư trùng lắp với các chương trình được xem xét song song. Đây là điểm then chốt quyết định mức cam kết thực hiện các chỉ tiêu tham vọng của chương trình.

Khi nhìn về phía trước, hai việc cần được khẩn trương hoàn thiện trước khi Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư là: (1) làm rõ cơ chế phân bổ, nguồn vốn và lộ trình huy động sao cho phù hợp với khả năng ngân sách địa phương, tránh gây áp lực không bền vững, và (2) xác định bộ chỉ tiêu đo lường kết quả rõ ràng, khả thi, gắn các mục tiêu vĩ mô với chỉ số đầu ra/đầu vào của từng dự án, để sau khi triển khai có thể đánh giá được hiệu quả kinh tế — xã hội một cách minh bạch. Nhiều ý kiến đề xuất cần bổ sung nội dung về quyền lợi của người khuyết tật, phát huy tài sản của y học cổ truyền và cơ chế miễn đối ứng cho địa phương nghèo khó.

Dự thảo Chương trình Mục tiêu Quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển 2026–2035 là bước thể chế hóa một loạt chủ trương lớn về y tế — dân số; nội dung và quy mô đầu tư phản ánh tham vọng nâng cao sức khỏe toàn dân và ứng phó già hóa dân số. Tuy nhiên, việc thông qua và triển khai thành công phụ thuộc chặt chẽ vào khả năng làm rõ nguồn vốn, tinh gọn nội dung tiểu dự án để tránh dàn trải, tăng cường năng lực quản lý ở tuyến cơ sở và chính sách hỗ trợ cho địa phương khó khăn. Quốc hội và Chính phủ đang bước vào giai đoạn rà soát quyết liệt để hoàn thiện dự thảo Nghị quyết trước khi quyết định chủ trương đầu tư.

Like fanpage để theo dõi thông tin mới nhất


Bình luận