Tảo hôn và hôn nhân cận huyết: Nguy cơ suy giảm giống nòi
Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống là những hủ tục lạc hậu vẫn còn tồn tại ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, gây ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe sinh sản, chất lượng dân số và sự phát triển bền vững của xã hội. Thực trạng này trở thành thách thức lớn đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị và cộng đồng.
Hệ lụy dai dẳng đối với chất lượng dân số
Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống là những hủ tục lạc hậu vẫn còn tồn tại một số địa bàn, đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực trạng này không chỉ vi phạm quy định pháp luật mà còn gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dân số, nguồn nhân lực và sự phát triển bền vững của xã hội.
Trên thực tế, tình trạng này vẫn xảy ra thường xuyên tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, xuất phát từ nhiều nguyên nhân như điều kiện kinh tế hạn chế, tập quán lâu đời, trình độ dân trí chưa cao, khả năng tiếp cận thông tin pháp luật còn hạn chế. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại một số địa phương chưa thực sự hiệu quả; việc xử lý các trường hợp vi phạm chưa đủ sức răn đe.
Bên cạnh đó, tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống để lại hậu quả lâu dài đối với sức khỏe sinh sản, chất lượng giống nòi và đời sống xã hội, đồng thời là một trong những nguyên nhân làm gia tăng đói nghèo, cản trở quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở nhiều địa phương.
Theo các chuyên gia y tế, trẻ em sinh ra từ các cặp vợ chồng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống có nguy cơ cao mắc các bệnh di truyền, dị tật bẩm sinh, chậm phát triển thể chất và trí tuệ, suy dinh dưỡng, thậm chí tử vong sơ sinh. Nhiều bệnh lý thường gặp gồm tan máu bẩm sinh, thiếu men G6PD, rối loạn chuyển hóa, thiểu năng trí tuệ, mù màu và bạch tạng.
Theo ngành dân số, tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống để lại hậu quả lâu dài, làm suy giảm chất lượng dân số và giống nòi. Thống kê cho thấy, trong số trẻ sinh ra từ các cặp vợ chồng có quan hệ huyết thống gần, khoảng 25% có nguy cơ mắc bệnh, 50% mang gen bệnh tan máu bẩm sinh Thalassemia. Đây là bệnh lý di truyền chưa có phương pháp điều trị khỏi hoàn toàn, người mắc phải điều trị suốt đời với chi phí lớn và có nguy cơ di truyền cho các thế hệ sau, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Hôn nhân cận huyết và cái giá phải trả
Tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh Thái Nguyên, tình trạng tảo hôn và kết hôn cận huyết thống vẫn âm thầm diễn ra, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe giống nòi và chất lượng dân số.
Gia đình chị Hoàng Thị Sua, người dân tộc Mông ở thôn Tân Hợi (xã Nghiên Loan), là một trong những trường hợp điển hình cho hệ lụy của hôn nhân cận huyết thống. Vợ chồng chị vốn có quan hệ họ hàng gần, là con của chị ruột và con của em ruột trong cùng dòng họ. Do thiếu hiểu biết pháp luật và không được tiếp cận thông tin tuyên truyền, hai người đã tự nguyện kết hôn theo tập tục cũ.
Hậu quả, đứa con đầu lòng của anh chị - em Lý Thanh Tân sinh ra mắc dị tật bẩm sinh, sức khỏe yếu, chậm phát triển so với các bạn cùng trang lứa và không có khả năng đến trường.
Chia sẻ về hoàn cảnh của gia đình, chị Hoàng Thị Sua cho biết, do nhận thức hạn chế và ảnh hưởng của phong tục truyền thống, chị và chồng vẫn quyết định đến với nhau dù biết có quan hệ huyết thống gần. “Chỉ đến khi sinh con ra mang dị tật bẩm sinh, tôi mới thực sự thấm thía những hậu quả nặng nề của hôn nhân cận huyết”, chị nói.
Theo chính quyền địa phương, xã Nghiên Loan hiện có hơn 90% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó tình trạng tảo hôn và kết hôn cận huyết thống chủ yếu xảy ra ở cộng đồng người Mông. Nguyên nhân xuất phát từ nhận thức hạn chế, phong tục tập quán lạc hậu, cùng với điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ học vấn thấp và địa bàn sinh sống xa trung tâm, gây nhiều trở ngại cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Từ đầu năm đến nay, xã đã ghi nhận ba trường hợp tảo hôn, cho thấy vấn đề này vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ nếu không được ngăn chặn kịp thời.
Tại thôn Tà Han (xã Nam Cường) có 108 hộ dân, 100% là đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Do nhận thức của bà con còn hạn chế và một số tập tục lạc hậu còn tồn tại nên tình trạng tảo hôn vẫn xảy ra. Chỉ trong đầu năm 2025, thôn đã ghi nhận 2 trường hợp tảo hôn, khi các cặp nam nữ mới chỉ từ 15 đến 17 tuổi. Mặc dù công tác tuyên truyền luôn được chú trọng, nhưng để thay đổi nhận thức của người dân vẫn là bài toán khó.
Theo báo cáo ngành chuyên môn, năm 2025 toàn tỉnh ghi nhận 25 trường hợp tảo hôn và 3 vụ kết hôn cận huyết thống. Nhằm ngăn ngừa tình trạng này, các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương đã tích cực triển khai các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Chung tay xóa bỏ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống
Xóa bỏ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống là nhiệm vụ lâu dài, khó khăn, đòi hỏi cách tiếp cận toàn diện, giải pháp đồng bộ và sự kiên trì của cả hệ thống chính trị và cộng đồng. Bên cạnh việc thực thi nghiêm pháp luật, cần đổi mới nội dung và phương thức truyền thông phù hợp với phong tục, văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số; phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng, nhà trường và gia đình để nâng cao nhận thức cho thanh, thiếu niên.
Chính quyền, đoàn thể cần tăng cường tuyên truyền, xử lý nghiêm vi phạm, đồng thời gắn các quy định pháp luật về hôn nhân – gia đình vào hương ước, quy ước thôn bản và các tiêu chí văn hóa. Nhà trường phải coi phòng, chống tảo hôn là nhiệm vụ quan trọng, đẩy mạnh giáo dục, truyền thông và tạo môi trường để học sinh chủ động tham gia. Vị thành niên cần tích cực tìm hiểu, tham gia tuyên truyền và nói không với hủ tục.
Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống là hành vi vi phạm pháp luật, gây nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho cá nhân, gia đình và xã hội. Mỗi người, mỗi gia đình và cộng đồng cần chung tay đẩy lùi, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn các hủ tục này, góp phần xây dựng xã hội văn minh, phát triển bền vững.
Like fanpage để theo dõi thông tin mới nhất










