13:29 05/12/2025

Việt Nam thúc đẩy can thiệp ngôn ngữ, giao tiếp cho trẻ khuyết tật trong giáo dục hòa nhập

Icon No Avatar Tre Em Viet Nam Phương Nhung

Hội thảo quốc tế về can thiệp ngôn ngữ - giao tiếp cho trẻ khuyết tật tại Đại học Sư phạm Hà Nội, quy tụ chuyên gia từ Mỹ, Nhật Bản, Úc…, đang mở ra động lực mới để Việt Nam nâng tầm hỗ trợ trẻ khuyết tật. Sự kiện mang đến góc nhìn liên văn hoá - liên ngành tiên tiến, đồng thời gợi mở chiến lược đào tạo Ngôn ngữ trị liệu, mở rộng cánh cửa giao tiếp cho mọi trẻ em.

Ngày 04/12, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo khoa học quốc tế “Nâng cao chất lượng can thiệp ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ khuyết tật trong giáo dục hoà nhập”, do Đại học Sư phạm Hà Nội phối hợp với Đại học Wakayama (Nhật Bản) và UNICEF Việt Nam tổ chức.

Sự kiện được đánh giá là một hoạt động học thuật nổi bật năm 2025, quy tụ hơn 50 nghiên cứu từ các chuyên gia Nhật Bản, Mỹ, Úc, Malaysia... và nhiều đơn vị trong nước, phản ánh bức tranh đa dạng về nghiên cứu - can thiệp - đổi mới giáo dục cho trẻ khuyết tật.

Nỗ lực quốc tế trong thúc đẩy chất lượng can thiệp ngôn ngữ

Đại diện Bộ Giáo dục - Đào tạo, TS. Tạ Ngọc Trí - Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo giáo dục trẻ khuyết tật và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đánh giá cao sự chủ động của Đại học Sư phạm Hà Nội trong việc tổ chức hội thảo có ý nghĩa thiết thực và tầm nhìn chiến lược.

TS Tạ Ngọc Trí
TS. Tạ Ngọc Trí khẳng định, để bảo đảm cơ hội học tập công bằng, học sinh khuyết tật cần được học theo đúng khả năng và nhu cầu, với kế hoạch giáo dục cá nhân được thiết kế như một “món ăn phù hợp” cho từng em.

Ông chia sẻ hội thảo diễn ra đúng thời điểm ngành giáo dục thúc đẩy đổi mới toàn diện: chương trình phổ thông mới, nâng chuẩn giáo viên, chuyển đổi số và phát triển giáo dục hòa nhập theo tinh thần nhân văn, công bằng, bền vững, cùng định hướng xây dựng Trường Khoa học Phát triển Trẻ thơ tại Đại học Sư phạm Hà Nội.

Theo Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị, phấn đấu đến năm 2030 sẽ hoàn thành phổ cập mầm non 3-5 tuổi và giáo dục bắt buộc đến hết THCS. TS. Tạ Ngọc Trí khẳng định, học sinh khuyết tật phải được học theo khả năng và nhu cầu riêng, với kế hoạch giáo dục cá nhân như “món ăn phù hợp” cho mỗi em - vừa mở ra cơ hội, vừa đặt ra yêu cầu cấp thiết về đội ngũ nhân lực đủ năng lực đồng hành.

PGS.TS. Nguyễn Đức Sơn - Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhấn mạnh vai trò tiên phong của Nhà trường trong đào tạo và nghiên cứu giáo dục đặc biệt. Gần 25 năm qua, Khoa Giáo dục đặc biệt giữ vị trí nòng cốt, dẫn dắt đào tạo giáo viên và chuyên gia, thúc đẩy các xu hướng mới như tiếp cận đa giác quan, UDL, STEAM và ứng dụng công nghệ - trí tuệ nhân tạo trong can thiệp, qua đó nâng cao vị thế học thuật và mở rộng hợp tác quốc tế.

Thầy Sơn
PGS.TS. Nguyễn Đức Sơn - Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Bà Tara O’Connell - Trưởng Chương trình Giáo dục UNICEF Việt Nam khẳng định cam kết mạnh mẽ của UNICEF đồng hành cùng Việt Nam thực thi Nghị quyết 71 và Quyết định 403, mở rộng hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập.

Bà nhấn mạnh thông điệp: “Không có gì cho chúng ta nếu không có chúng ta” -  đặt trẻ em ở vị trí trung tâm, bảo đảm mọi trẻ khuyết tật được tham gia, được lắng nghe theo khả năng của mình. Một hệ thống giáo dục chỉ thật sự công bằng và vững mạnh khi mọi trẻ đều được tiếp cận và đóng góp cho cộng đồng.

Unicef
Bà Tara O’Connell - Trưởng Chương trình Giáo dục UNICEF Việt Nam.

TS. Đỗ Thị Thảo - Phó Hiệu trưởng Trường Khoa học Phát triển Trẻ thơ, Trưởng khoa Giáo dục Đặc biệt chỉ rõ yêu cầu hiện nay không chỉ là “hỗ trợ cho trẻ” mà phải xây dựng hệ sinh thái học tập hỗ trợ giao tiếp, trong đó giáo viên - gia đình - bạn học - chuyên gia - công nghệ cùng kiến tạo môi trường cho trẻ phát triển toàn diện.

TS Đỗ Thị Thảo
TS. Đỗ Thị Thảo - Phó Hiệu trưởng Trường Khoa học Phát triển Trẻ thơ, Trưởng khoa Giáo dục Đặc biệt.

Các tham luận tập trung vào bốn định hướng chính của giáo dục đặc biệt:

1. Phân tích sâu đặc điểm phát triển ngôn ngữ - giao tiếp của từng nhóm trẻ trong môi trường hòa nhập;

2. Thúc đẩy các mô hình can thiệp dựa trên bằng chứng quốc tế như BASICS³, EDP, đa giác quan, giao tiếp trực quan… được điều chỉnh phù hợp với trẻ khuyết tật Việt Nam;

3. Ứng dụng công nghệ số trong can thiệp: AAC, AVAZ tiếng Việt, Video Modeling và thử nghiệm AI hỗ trợ giao tiếp - mở rộng cơ hội học tập và hòa nhập;

4. Tăng cường vai trò gia đình và cộng đồng - coi nâng cao năng lực cho phụ huynh và phối hợp đa bên là điều kiện then chốt cho hiệu quả bền vững.

oàn chủ tịch
Đoàn Chủ tịch chủ trì Hội thảo.

Thành tựu và tính bền vững trong đào tạo Ngôn ngữ trị liệu: Cơ hội cho Việt Nam

Để tăng cường can thiệp ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ khuyết tật trong giáo dục hoà nhập, một trong những nhóm chuyên gia giữ vai trò then chốt là chuyên viên ngôn ngữ trị liệu trường học. Bàn về việc đào tạo ngôn ngữ trị liệu, nhóm chuyên gia đến từ Úc, Mỹ, Ghana, Zambia và Việt Nam mang đến bức tranh toàn diện về quá trình này tại các quốc gia đang phát triển, từ những bước khởi đầu nhiều thách thức đến mục tiêu chuẩn hóa và phát triển bền vững.

Báo cáo do GS. Lindy McAllister (Đại học Sydney, Úc) chủ trì, cùng sự tham gia của TS. Marie Atherton (Đại học Công giáo Úc), TS. Karen Wylie (Đại học Curtin, Úc), TS. Nana Akua Owusu (Đại học Ghana, Ghana), TS. Muchinka Peele (Trung tâm Ngôn ngữ trị liệu G, Zambia), TS. Chisomo Selemani (ĐH Baldwin Wallace, Mỹ) và PGS.TS. Phạm Thị Bền (Đại học Sư phạm Hà Nội, Việt Nam).    

báo cáo về ngành ng?
Nhóm chuyên gia đến từ Úc, Mỹ, Ghana, Zambia và Việt Nam mang đến bức tranh toàn diện về quá trình đào tạo ngôn ngữ trị liệu tại các quốc gia đang phát triển.

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                    Theo GS. Lindy McAllister, sự ra đời và lớn mạnh của ngành được thúc đẩy bởi các chính sách toàn cầu như Báo cáo Thế giới về Khuyết tật (WHO, 2011), Sáng kiến Phục hồi chức năng 2030, Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền của Người khuyết tật và các mục tiêu phát triển bền vững. Hợp tác học thuật quốc tế chính là “đòn bẩy” hình thành đội ngũ giảng viên và kết nối cộng đồng chuyên môn.

Một ví dụ truyền cảm hứng đến từ Zambia. TS. Chisomo Selemani cho biết, quốc gia này đã đi từ đào tạo cơ bản, mở các phòng khám hỗ trợ trẻ, đến nay đã đào tạo tới bậc Thạc sĩ ngành Ngôn ngữ trị liệu. Thành công đến từ hệ sinh thái chính sách - đào tạo - lâm sàng được thiết kế đồng bộ và có đối tác đồng hành lâu dài. Ở cả Ghana và Zambia, các chương trình đào tạo Ngôn ngữ trị liệu được thực hiện trong các cơ sở đào tạo y tế công cộng và giáo dục.

Tại Việt Nam, PGS.TS. Phạm Thị Bền nhấn mạnh vai trò đặt nền móng trong giai đoạn đầu phát triển Ngôn ngữ trị liệu của các trường y khoa và những nhà chuyên môn tiên phong. Các trường đại học y khoa như Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Đại học Y Dược TP.HCM, Đại học Kĩ thuật Y tế Hải Dương, Đại học Kĩ thuật Y - Dược Đà Nẵng, Đại học Y - Dược, Đại học Huế đã có chương trình đào tạo ngắn hạn đến khoá cử nhân và thạc sĩ đầu tiên về Ngôn ngữ trị liệu. Một trong số những nhà chuyên môn tiên phong, đó là PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung (Nguyên Hiệu trưởng ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Nguyên Giám đốc BV Tai mũi họng TP. HCM, Nguyên chủ tịch Hội Tai - Mũi - Họng Việt Nam).  

Tuy nhiên, theo GS Lindy McAllister, đào tạo Ngôn ngữ trị liệu ở Việt Nam hiện mới chủ yếu là ở các cơ sở đào tạo y khoa; trong khi đó, ở các nước đang phát triển khác như Ghana hay Zambia, việc đào tạo ngôn ngữ trị liệu đều gồm cả những cơ sở đào tạo ngoài y khoa.

Tương tự, tại Úc, Anh, New Zealand hay Mỹ, chương trình đào tạo Ngôn ngữ trị liệu đều được cung cấp bởi các trường đại học không phải là trường y khoa, trong các khoa như ngôn ngữ học, tâm lí học, giáo dục học, y tế cộng đồng. Dù đào tạo ngôn ngữ trị liệu ở đất nước nào và ở cơ sở đào tạo nào đều phải đáp ứng các tiêu chuẩn hành nghề để hỗ trợ ngôn ngữ và giao tiếp cho các cá nhân gặp khó khăn ở các môi trường khác nhau như bệnh viện, trường học, các tổ chức xã hội và các cơ sở cung cấp dịch vụ tư thục.

Thực tiễn cho thấy, nhu cầu xã hội tăng nhanh, nhưng nguồn nhân lực vẫn thiếu, thực hành lâm sàng còn hạn chế và chính sách công nhận nghề chưa theo kịp thực tiễn. Để tăng tốc và hội nhập, các chuyên gia khuyến nghị Việt Nam cần: hoàn thiện khung năng lực và chuẩn đạo đức nghề nghiệp; mở rộng đào tạo tại cộng đồng; tăng cường hợp tác quốc tế chuyên sâu, đào tạo giảng viên và xây dựng các mô hình học tập linh hoạt; đồng thời có chính sách thu hút nhân lực.

Từ kinh nghiệm quốc tế, nhóm nghiên cứu đề xuất lộ trình 4 giai đoạn: Khởi động (xuất phát từ nhu cầu xã hội); Gây dựng nền tảng (hợp tác, đào tạo thí điểm); Thiết lập (mở chương trình chính quy tại đại học); và Củng cố - tự chủ (bền vững và mở rộng tiếp cận dịch vụ).

Khi đào tạo - chính sách - thực hành lâm sàng phát triển đồng bộ, ngành Ngôn ngữ trị liệu sẽ tiến nhanh, mở thêm cơ hội giao tiếp cho hàng triệu trẻ có nhu cầu đặc biệt. Mục tiêu lâu dài là hình thành chuẩn quốc gia và hệ sinh thái dịch vụ bền vững, công bằng, để mọi trẻ đều có thể kết nối với thế giới theo cách riêng.

Một số hình ảnh về Hội thảo 

PGS.TS Phạm Thị
PGS.TS Phạm Thị Bền đại diện nhóm báo cáo về mô hình can thiệp giao tiếp cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ: từ góc nhìn giáo dục đặc biệt đến tiếp cận liên ngành.
giáo sư giáo sư
Chuyên gia BASIC 3 Craig Goldsberry (Mỹ) chia sẻ về phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ khuyết tật vừa và nặng.
chuyên gia Nhật chuyên gia Nhật
Nhóm nghiên cứu của bà Koga Masako (Viện Nghiên cứu Văn hóa Nhi đồng Việt Nhật PiPi) và TS. Nguyễn Thị Cẩm Hường (Đại học Sư phạm Hà Nội) chia sẻ về đọc sách tranh Ehon hỗ trợ phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ điếc.
báo cáo
Các báo cáo phản ánh bức tranh phong phú về nghiên cứu - can thiệp - đổi mới giáo dục trong lĩnh vực ngôn ngữ, giao tiếp cho trẻ khuyết tật.
toàn cảnh
Toàn cảnh hội thảo.
tập thể hội thảo
Hội thảo quốc tế 2025 không chỉ là diễn đàn chuyên môn, mà còn là lời khẳng định cam kết của Việt Nam đối với giáo dục hòa nhập - vì một nền giáo dục không ai bị bỏ lại phía sau.

 

Like fanpage để theo dõi thông tin mới nhất


Bình luận